Skip to: site menu | section menu | main content

English | 中文 | 한국어 | 日本語 | Tiếng Việt

Văn Phòng Luật Moses

Cung cấp những dịch vụ về di trú từ năm 1988

Currently viewing: Văn Phòng Luật Moses » Trang chủ » Nhập cảnh tạm thời » Visitor Visa

Visitor Visa Applications


Trừ trường hợp một người đến từ quốc gia được miễn thị thực du lịch thì không cần nộp đơn trước để được cấp Visitor Visa, tất cả những người muốn nhập cảnh Canada mà không phải là thường trú nhân hoặc công dân, cần phải nộp đơn xin thị thực trước đến Canada. Hồ sơ xin thị thực có thể được nộp trực tuyến hoặc nộp tại Trung tâm phụ trách cấp thị thực Visa Application Center (VAC) tại khu vực bạn ở.


Cách đầu tiên và ngay thẳng nhất để xin Visitor Visa đến Canada là được thân nhân gửi thư mời, thư đó thường tuyên thệ bởi luật sư dưới hình thức Declaration, mời người thân sang thăm và hứa hẹn trong thư sẽ chu cấp tài chính, chỗ ở, quần áo, sức khỏe và các nhu cầu khác của họ, trong thời gian họ ở Canada. Người nộp đơn xin Visitor Visa phải thể hiện bằng chứng có mối quan hệ với đất nước mình bao gồm công việc, quyền sở hữu tài sản, gia đình, ổn định tài chính, v.v..., để thuyết phục sở di trú tin rằng người nộp đơn có lý do chính đáng để trở về nước và sẽ không cư trú bất hợp pháp tại Canada.


Nhiều du khách, sau khi đã nhập cảnh vào Canada, tìm cách xin nhập cư. Ngoại trừ một số trường hợp nhất định, các đơn xin nhập cư thường xuyên phải được xử lý thông qua trụ sở cấp thị thực ngoài Canada. Những người tìm cách chuyển từ Visitor Visa sang Study Permit hoặc Work Permit, phải nộp đơn tại trụ sở cấp thị thực bên ngoài Canada. Thông thường trong quá khứ, những người đã nhập cảnh vào Canada sẽ nộp đơn tại trụ sở cấp thị thực nhập cư Canada tại Mỹ. Tuy nhiên, theo luật di trú có hiệu lực vào tháng 6 năm 2002, đương đơn phải nộp đơn tại trụ sở phụ trách cấp thị thực tại đất nước của họ trừ khi người đó đã ở một nước khác một cách hợp pháp trong ít nhất một năm, thì có thể nộp đơn thông qua quốc gia đó. Với những người được nhập cảnh vào Canada một cách hợp pháp trong ít nhất một năm và những người có thể được nhập cảnh hợp pháp vào Mỹ, hồ sơ có thể được nộp tại trụ sở cấp visa Canada tại Mỹ. Cần lưu ý rằng sở hữu một bức thư hẹn phỏng vấn không đảm bảo rằng lãnh sự quán Hoa Kỳ hoặc quốc gia khác sẽ cho phép người nộp đơn nhập cảnh vào quốc gia nơi cuộc phỏng vấn sẽ diễn ra.


Trong danh mục hồ sơ xin cấp thị thực của khách du lịch, có một danh mục dành cho khách hàng doanh nghiệp và những người thực hiện các chuyến thăm với mục đích khám phá tìm kiếm các cơ hội kinh doanh. Những người này thường phải xuất trình thư mời từ một số doanh nghiệp ở Canada cũng như mô tả hành trình cho chuyến thăm của họ ở Canada. Trong một số trường hợp, quy mô doanh nghiệp của người nộp đơn ở nước sở tại và khối lượng tài sản ở nước sở tại đạt yêu cầu, điều đó có thể thuyết phục sở di trú Canada rằng người nộp đơn không có ý định ở lại Canada, thực sự dự định đến Canada chỉ là một chuyến du lịch.


Việc không cung cấp thông tin trung thực và chính xác khi nộp đơn xin thị thực có thể không chỉ dẫn đến việc bị từ chối mà còn bị lưu lại hồ sơ khiến những nỗ lực trong tương lai khi nhập cảnh vào Canada sẽ gặp rất nhiều khó khăn.


Hôn thê/hôn phu hoặc vợ/chồng không có tư cách pháp lý gì tại Canada khi nộp đơn xin thăm vợ/chồng mình đang sống tại Canada (là thường trú nhân hoặc công dân) phải rất cẩn thận về những gì họ khai báo trong hồ sơ xin Visitor Visa. Quy tắc chung của các cơ quan di trú là trừ khi hồ sơ bảo lãnh được chấp nhận, ít nhất là được chấp thuận về mặt nguyên tắc, người nộp đơn có thể vào Canada không chỉ vì mục đích nhập cảnh tạm thời và do đó sẽ không được cấp thị thực. Có những trường hợp người nộp đơn không khai báo thông tin về hôn thê/hôn phu hoặc vợ/chồng ở Canada trước khi nhập cảnh và sau khi vào Canada, hôn thê/hôn phu hoặc vợ/chồng ở Canada đó nộp đơn xin bảo lãnh với ghi chú hai người đã tồn tại mối quan hệ trước ngày người nộp đơn nhập cảnh. Trong những trường hợp như vậy, sở di trú có thể cho rằng người nộp đơn đã không nói sự thật khi xin Visitor Visa với mục đích đến thăm, và vì thế từ chối hồ sơ xin bảo lãnh.


Cần lưu ý rằng khi nhập cảnh vào Canada, nhân viên xuất nhập cảnh tại cửa hải quan có thể chỉ định thời hạn được phép ở lại Canada trên Visitor Visa. Trường hợp không quy định giới hạn thời gian, quy tắc chung là một người có thể ở lại không quá 6 tháng.


Lưu ý cuối cùng:

Trong nhiều trường hợp, nhiều người tìm cách nhập cảnh vào Canada tạm thời, tự nộp đơn mà không tham khảo tư vấn pháp lý, đặc biệt là nộp đơn xin visa du lịch - Visitor Visa. Tuy nhiên đối với các trường hợp này, khi bị cục quản lý xuất nhập cảnh Canada từ chối hồ sơ, nỗ lực thử lại lần hai khó khăn hơn nhiều, đặc biệt là khi xin Study Permit hoặc Work Permit. Nếu người nộp đơn muốn tìm cách an toàn và ít rủi ro nhất để nộp đơn xin Study Permit hoặc Work Permit, cần phải có sự trợ giúp chuyên nghiệp ngay từ đầu, trước khi bị từ chối do các vấn đề phát sinh. Việc tham khảo tư vấn pháp lý về cách thức tốt hơn để đặt nền tảng cho hồ sơ xin thị thực tạm thời (Visitor, Study and Work Permit) là rất quan trọng để đảm bảo thành công, đặc biệt là trong hoàn cảnh hiện nay khi các cơ quan xuất nhập cảnh nghiêm ngặt hơn trong việc áp dụng các quy tắc và quy định về visa nhập cảnh tạm thời. Thêm nữa, với xu hướng hiện tại về việc từ chối thị thực tạm thời gia tăng, bạn nên tham khảo tư vấn từ luật sư di trú đủ điều kiện về những rủi ro và rắc rối có thể gặp phải. Như thường lệ, đương đơn xin thị thực tạm thời, đặc biệt là các hồ sơ xin cấp Work Permit và Study Permit, nên tham khảo tư vấn pháp lý hợp lý và trung thực để người nộp đơn xin visa không mất quyền duy trì tư cách học tập hoặc làm việc tại Canada.


Để biết thêm thông tin xin liên lạc với chúng tôi tại Văn phòng Luật Marvin Moses.


(Vì các vấn đề và sự việc trong thực tế khá phức tạp, bạn nên tìm kiếm tư vấn pháp lý chuyên môn và phù hợp trước khi hành động theo bất kỳ thông tin nào trong bài viết này. Mặc dù nhiều công sức được bỏ ra để đảm bảo tính chính xác của thông tin trong bài viết, không cá nhân hoặc tổ chức nào tham gia vào việc chuẩn bị hoặc phân phối bài viết này phải chịu trách nhiệm pháp lý về nội dung của nó hoặc bất kỳ hậu quả nào phát sinh từ việc sử dụng nó.)